Ngành công nghiệp xuất hiện sớm nhất trên thế giới đó là ngành khai thác than. Trong cơ cấu sử dụng năng lượng, than được coi như nguồn năng lượng truyền thống và cơ bản. Than sử dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống.
Trước đây, than được dùng làm nhiên liệu trong các đầu máy hơi nước, đầu máy xe lửa; Sau đó, than được dùng làm nhiên liệu trong nhà máy nhiệt điện, than được cốc hóa làm nhiên liệu đối với ngành luyện kim. Gần đây, nhờ sự phát triển của công nghiệp hoá học, than được sử dụng như nguồn nguyên liệu để sản xuất ra nhiều loại dược phẩm, chất dẻo, sợi nhân tạo.
Trữ lượng than toàn thế giới ra sao?
Trữ lượng than trên toàn thế giới cao gấp nhiều lần trữ lượng dầu mỏ và khí đốt. Người ta ước tính có hơn 10 nghìn tỷ tấn, trong đó trữ lượng có thể khai thác được là 3.000 tỷ tấn mà 3/4 là than đá. Than tập trung chủ yếu ở phía Bắc bán cầu. Trong đó đến 4/5 thuộc về Trung Quốc (tập trung ở phía Bắc và Đông Bắc), Hoa Kỳ (chủ yếu ở những bang miền Tây), LB Nga (vùng Siberi), Ukraine (vùng Donbas), CHLB Đức, Ấn Độ, Úc (ở hai bang Queensland và New South Wales), Ba Lan…
Các loại than
Tùy thuộc vào khả năng sinh nhiệt, hàm lượng cacbon và độ tro. Người ta phân ra thành nhiều loại than. Mỗi loại than có những ưu, nhược điểm riêng. Và nhìn chung, không thể thay thế lẫn nhau được.
Than nâu
Than nâu là một khối đặc/xốp, màu nâu, hiếm có màu đen hoàn toàn, thường không có ánh. Than có độ cứng kém, khả năng sinh nhiệt tương đối ít, chứa nhiều tro (đôi khi lên đến 40%), độ ẩm cao (35%) và lưu huỳnh (1- 2%), mức độ biến chất thấp. Khi để than lâu ngày thành đống, than bị oxi hoá, vụn ra thành bột, sinh nhiệt khiến cho than tự bốc cháy. Tính chất này gây ra nhiều khó khăn cho việc bảo quản. Do khả năng sinh nhiệt thấp nên than nâu ít khi được vận chuyển đi xa. Than nâu thường sử dụng trong nhiệt điện, cho sinh hoạt, hoặc biến than thành nhiên liệu dạng khí.
Than đá
Than đá thường có màu đen, hiếm hơn nữa là màu đen hơi nâu, có ánh mờ. Than đá tính chất rất giòn. Có nhiều loại than đá khác nhau tùy thuộc vào thuộc tính của chúng. Khi đem nung mà không đưa không khí vào (đến 900-1100°C), than sẽ bị thiêu kết thành một loại đá rắn chắc và xốp.
Than antraxit & than khí
Than gầy (hay nửa antraxit) hoàn toàn không bị thiêu kết, không thành cốc, mà lại có dạng bột; mức độ biến chất cao nhất cùng với antraxit. Than gầy được dùng chủ yếu làm nhiên liệu nồi hơi & cho các nhà máy nhiệt điện.
Than khí là loại than có khả năng sinh ra một lượng khí thắp lớn. Được sử dụng giống như than gầy.
Than antraxit có màu đen, ánh kim, đôi khi còn có ánh ngũ sắc. Đây là một loại than không có ngọn lửa, cháy khó và cần thông gió mạnh nó mới cháy được. Nó có khả năng sinh nhiệt lớn hơn các loại than khác nên được dùng chủ yếu làm nhiên liệu nhiệt lượng cao. Than không tự bốc cháy nên người ta có thể để chất đống lâu ngày. Có độ bền cơ học cao, không bị vỡ vụn trong khi chuyên chở.
Ngoài ra còn có một số loại than khác (như than bùn…), song giá trị kinh tế khá thấp.
Tình hình của ngành công nghiệp xuất hiện sớm nhất thế giới
Ngành công nghiệp khai thác than xuất hiện tương đối sớm & được phát triển từ nửa sau thế kỉ XIX. Sản lượng than khai thác được rất khác nhau giữa những thời kì, giữa các khu vực và các quốc gia. Nhưng nhìn chung, có xu hướng tăng lên về số lượng. Trong vòng 50 năm qua, tốc độ tăng trung bình hàng năm là 5,4%/năm. Còn cao nhất là vào thời kì 1950 – 1980 đạt 7%/năm. Từ đầu thập kỉ 90 cho đến nay, mức tăng giảm xuống chỉ còn 1,5%/năm. Mặc dù việc khai thác và sử dụng than có thể gây hậu quả không tốt đến môi trường (đất, nước, không khí…). Song nhu cầu than không vì thế mà đi xuống.
Các khu vực & quốc gia khai thác nhiều than đều thuộc về những khu vực và quốc gia có trữ lượng than lớn trên thế giới. Sản lượng than tập trung chủ yếu ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Nga, một vài nước Đông Âu, Bắc Mỹ.
Các nước sản xuất than hàng đầu đó là Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Úc, Nga, chiếm tới 2/3 sản lượng than của thế giới. Nếu tính cả một số nước như Nam Phi, Đức, Ba Lan, CHDCND Triều Tiên… thì con số này lên đến 80% sản lượng than của toàn cầu.
Ngành công nghiệp khai thác than xuất hiện ở đâu?
Ngành công nghiệp khai thác than xuất hiện đầu tiên ở Anh vào đầu thế kỉ XIX. Sau đó, người ta tìm thấy nhiều than ở Hoa Kỳ, Ấn Độ, Canada. Vì thế những quốc gia này lần lượt dẫn đầu về sản lượng than khai thác của thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ II, hàng loạt mỏ than khổng lồ đã được phát hiện ở Êkibát, Nam Yacút, Đônbát (Liên Xô cũ), ở Ba Lan, Đông Đức. Trong vòng nhiều năm, Liên Xô dẫn đầu về sản lượng than. Từ sau năm 1990, do nhiều biến động về chính trị và kinh tế nên sản lượng than ở Đông Âu và Liên Xô cũ bị giảm sút.
Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, việc tìm ra được những mỏ than lớn ở Trung Quốc đã giúp nước này đứng đầu thế giới về khai thác than, vượt trên cả Mỹ.
Thị trường than quốc tế mới chỉ chiếm >10% sản lượng than khai thác. Việc buôn bán than gần đây phát triển nhờ điều kiện thuận lợi về giao thông đường biển. Song sản lượng than xuất khẩu lại không tăng nhanh, chỉ dao động ở mức 550 đến 600 triệu tấn/năm. Từ nhiều năm nay, Australia luôn là nước xuất khẩu than lớn nhất thế giới. Chiếm trên 35% (210 triệu tấn vào năm 2001) lượng than xuất khẩu. Tiếp sau đó là các nước Trung Quốc, Nam Phi, Hoa Kỳ, Indonesia, Colombia, Canada, Nga, Ba Lan… Các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, Pháp, Italia, Anh… có nhu cầu rất lớn về than và cũng là các quốc gia nhập khẩu than chủ yếu.
Khai thác than ở Việt Nam
Ở Việt Nam, than có nhiều loại, và trữ lượng lớn. Tập trung chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh (chiếm 90% trữ lượng than cả nước). Trữ lượng than của nước ta ước chừng có hơn 6,6 tỷ tấn. Trong đó trữ lượng than có khả năng khai thác là 3,6 tỷ tấn (đứng đầu ở Đông Nam Á). Sản lượng và xuất khẩu than ở nước ta tăng nhanh trong những năm gần đây.